Bài thơ Thu Vịnh (Nguyễn Khuyến) - Phân tích tác giả tác phẩm
Mùa thu luôn là nguồn cảm hứng bất tận trong thi ca, và với Nguyễn Khuyến, mùa thu lại càng đậm chất suy tư. Bài thơ “Thu vịnh” là một lát cắt tinh tế, vừa miêu tả thiên nhiên trong trẻo vừa khơi gợi cảm xúc thâm trầm của một thời đại đã qua.
Nội dung bài thơ Thu vịnh
Thu vịnh
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.

Đôi nét về tác giả Nguyễn Khuyến
- Nguyễn Khuyến sinh năm 1835, mất năm 1909, lúc nhỏ tên là Thắng.
- Quê quán: thôn Vị Hạ (làng Và), xã Yên Đổ, nay thuộc xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
- Thuở nhỏ nhà nghèo, thông minh, học giỏi, sau đó đi thi đỗ cả 3 kỳ thi: Hương, Hội, Đình, do đó nên được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ.
- Nguyễn Khuyến làm quan khoảng mười năm, nhưng đến khi thực dân Pháp đánh chiếm xong Bắc Bộ, ông cáo quan về ở ẩn.
- Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn của dân tộc. Thơ ca của ông chủ yếu được sáng tác vào giai đoạn sau ngày cáo quan về ở ẩn ở Yên Đổ.

Đôi nét về tác phẩm Thu vịnh
Hoàn cảnh sáng tác
Sau khi cáo quan về ở ẩn tại quê nhà Yên Đổ (Hà Nam) vào cuối thế kỷ XIX, Nguyễn Khuyến sống đời ẩn dật, tránh xa chốn quan trường rối ren thời thực dân Pháp mới đô hộ nước ta. Trong quãng đời này, ông dành thời gian làm thơ, câu cá, uống rượu, ngắm cảnh quê.
Chính trong bối cảnh ấy, ông đã sáng tác chùm thơ thu để thể hiện tình yêu thiên nhiên, nỗi niềm u uẩn của một bậc trí sĩ bất lực trước thời cuộc nhưng vẫn giữ lòng trong sạch và khí tiết.
Bố cục
Bố cục bốn phần: đề - thực – luận – kết.
- Đề (câu 1,2): bức tranh mùa thu qua hình ảnh trời thu và cần trúc (thời điểm ban trưa).
- Thực (câu 3,4): bức tranh mùa thu qua hình ảnh nước biếc và bóng trăng (thời điểm hoàng hôn và dần chuyển vào đêm).
- Luận (câu 5,6): Hình ảnh hoa và âm thanh tiếng ngỗng mùa thu gián tiếp bộc lộ tâm sự lo lắng thầm kín của tác giả trước cảnh mất nước.
- Kết (Câu 7,8): cảm hứng muốn làm thơ và nỗi tủi thẹn với “ông Đào” của nhà thơ.
Bài thơ cũng có thể được phân theo bố cục bốn câu đầu – bốn câu cuối, trong đó bốn câu đầu chủ yếu tả cảnh mùa thu, bốn câu sau chủ yếu thể hiện tâm tư, tình cảm của tác giả.
Giá trị nội dung
Bài thơ Thu Vịnh thể hiện vẻ đẹp trong trẻo của mùa thu làng quê Bắc Bộ, đồng thời gửi gắm tâm trạng cô đơn, u hoài và khí tiết thanh cao của nhà thơ ẩn sĩ.
Giá trị nghệ thuật
Màu sắc (nước biếc) hòa hợp trong tranh của Nguyễn Khuyến.
Cách so sánh "trông như tầng khói phủ" làm cho cảnh dịu nhẹ, mờ nhạt. Ta hình dung được mùa thu trong màu biếc lẫn với màu khói.
Hình ảnh "Song thưa để mặc ánh trăng vào" quen thuộc mà vẫn nên thơ. Cách nói của Nguyễn Khuyến "để mặc" cho thấy cảnh của ông phóng khoáng, tâm hồn ông rộng mở.
>>> Tham khảo thêm: Bài thơ Qua đèo ngang (Bà Huyện Thanh Quan) - Phân tích tác giả tác phẩm
Dàn ý phân tích tác phẩm Thu Vịnh
Mở Bài
Qua việc vịnh mùa thu với những nét đẹp tiêu biểu, Nguyễn Khuyến cho thấy một tâm sự u hoài, một tấm lòng xót xa trước cảnh, kín đáo, bày tỏ một tình cảm yêu nước chân thành.
Thân Bài
- Đề: Giới thiệu tổng quát cảnh mùa thu
Hình ảnh “Trời thu xanh ngắt...” là màu xanh quen thuộc của Nguyễn Khuyến khi tả mùa thu. “Mấy tầng cao” vẽ được cái cao vút, thăm thẳm của khung trời mùa thu.
Hình ảnh “cần trúc lơ phơ” tạo nét động cho bức tranh thu. “Hắt hiu” diễn tả được cái se lạnh của gió mùa thu. Cách giới thiệu rất khéo và rất đạt.
- Thực: Cảnh trăng nước của mùa thu
Màu sắc (nước biếc) hoà hợp trong tranh của Nguyễn Khuyến. Cách so sánh “trông như tầng khói phủ” làm cho cảnh dịu nhẹ, mờ nhạt. Ta hình dung được mùa thu trong màu biếc lẫn với màu khói.
Hình ảnh “Song thưa để mặc ánh trăng vào” quen thuộc mà vẫn nên thơ. Cách nói của Nguyễn Khuyến “để mặc” cho thấy cảnh của ông phóng khoáng, tâm hồn ông rộng mở.
Cảnh đẹp, màu sắc dịu nhẹ. Cảnh cho thấy sự hòa nhập của con người với thiên nhiên. Ta có cảm tưởng Nguyễn Khuyến đang thả mình trong thiên nhiên với làn nước, với ánh trăng.
- Luận: Cảnh hoa và tiếng chim (ngỗng) của mùa thu
Nghệ thuật đảo ngữ làm nổi bật hình ảnh “mấy chùm” hoa và “một tiếng” ngỗng.
Hình ảnh “hoa năm ngoái” có sức gợi tả mạnh; “hoa năm ngoái” có nghĩa là hoa vẫn là hoa y như năm ngoái (gợi lên cho ta hiểu) mà nước hôm nay thì đã trở thành “nước nào”.
Hình ảnh “hoa năm ngoái” làm ta nhớ cách dùng chữ của Nguyễn Du: “Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông”.
Tiếng ngỗng ở đây, về nghệ thuật, là lấy cái động để diễn tả cái tĩnh.
Nói tóm lại, hai câu luận cũng là tả về mùa thu, nhưng qua cảnh, ta thấy được tâm trạng của nhà thơ, thấy được sự thầm kín của một con người không thể dửng dưng trước cảnh mất nước.
- Kết: Cảm hứng và nỗi thẹn của nhà thơ
“Nhân hứng” tức là cái hứng thú trước cảnh đẹp của mùa thu. “Toan cất bút” nghĩa là định làm thơ, cảnh thu đẹp và gợi hứng cho nhà thơ.
“Nghĩ ra” tức là ý thức, là lý trí, là tỉnh. Nguyễn Khuyến rất say mà rất tỉnh. Ông say trước cảnh đẹp của mùa thu, nhưng ông vẫn tỉnh trước lương tâm của mình. Cho nên, ông nói được là thẹn. Nhưng thẹn với ai?
Ông Đào tức là Đào Tiềm, một danh sĩ đồng thời là một nhà thơ nổi từ đời Tấn, đã “dũng thoái” treo ấn từ quan, về sống với ruộng vườn, với hoa cũ được giữ được cái khí tiết của mình.
Bằng điển tích này, Nguyễn Khuyến đã bộc lộ “cái tôi” của mình trong cảnh sắc mùa thu một cách khá đậm nét. “Thẹn với ông Đào” là một cách nói bộc lộ được tấm lòng thanh cao của nhà thơ, thể hiện được cái tự hào khiêm tốn của ông trước lương tâm của mình: “Rằng quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu”.
Kết Bài
Bài Thu vịnh tả tổng quát về mùa thu, chứ không nói một đặc cảnh “uống rượu” hay “câu cá”, nhưng ta vẫn thấy nét thu đặc biệt của Nguyễn Khuyến.
Hơn nữa, trong cảnh sắc mùa thu này, ta thấy khá rõ được tâm hồn thanh cao và khí tiết của một người: “Sạch như nước, trắng như ngà, trong như tuyết”.
>>> Tham khảo thêm: Bài thơ Cây dừa (Trần Đăng Khoa) - Phân tích tác giả tác phẩm
“Thu vịnh” không đơn thuần là bài thơ miêu tả cảnh thu mà còn là một lời tâm sự, một nỗi lòng được giấu kín trong vẻ ngoài ung dung, bình thản. Nguyễn Khuyến đã khéo léo gửi gắm cả tâm hồn nhà nho lánh đời vào từng câu chữ đậm chất thu.