Thơ yêu nước hào hùng qua ngòi bút của các thi sĩ tài hoa

Lòng yêu nước từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng thiêng liêng cho thi ca Việt Nam. Qua ngòi bút của các thi sĩ, những vần thơ yêu nước không chỉ xúc động mà còn khơi dậy tinh thần dân tộc mãnh liệt trong lòng người đọc.

Sông núi nước Nam

Tác giả: Lý Thường Kiệt (năm 981)

Dịch thơ:

Sông núi nước Nam vua Nam ở

Vằng vặc sách trời chia xứ sở

Giặc dữ cớ sao phạm đến đây

Chúng mày nhất định sẽ tan vỡ.

Tự hào khí phách sông núi nước nam
Tự hào khí phách sông núi nước nam

Tụng giá hoàn kinh sư 

Tác giả: Trần Quang Khải (1285)

Dịch thơ:

Chương Dương cướp giáo giặc

Hàm Tử bắt quân thù

Thái bình nên gắng sức

Non nước ấy ngàn thu

(Dịch thơ: Trần Trọng Kim)

Bình Ngô đại cáo

Tác giả: Nguyễn Trãi (năm 1428)

Dịch thơ:

Thay trời hành hoá, hoàng thượng truyền rằng.

Từng nghe:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;

Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,

Núi sông bờ cõi đã chia,

Phong tục Bắc Nam cũng khác;

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;

Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,

Song hào kiệt thời nào cũng có.

Cho nên:

Lưu Cung tham công nên thất bại;

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã

Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi.

Vừa rồi:

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà

Để trong nước lòng dân oán hận

Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ

Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ

Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế

Gây thù kết oán trải mấy mươi năm

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.

Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.

Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.

Vét sản vật, bắt dò chim trả, chốn chốn lưới chăng.

Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.

Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,

Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.

Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán,

Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa?

Nặng nề những nỗi phu phen

Tan tác cả nghề canh cửi.

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!

Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?

Ta đây:

Núi Lam sơn dấy nghĩa

Chốn hoang dã nương mình

Ngẫm thù lớn há đội trời chung

Căm giặc nước thề không cùng sống

Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời

Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.

Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,

Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.

Những trằn trọc trong cơn mộng mị,

Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi

Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,

Chính lúc quân thù đang mạnh.

Lại ngặt vì:

Tuấn kiệt như sao buổi sớm,

Nhân tài như lá mùa thu,

Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,

Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,

Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông,

Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.

Thế mà:

Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi.

Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.

Phần vì giận quân thù ngang dọc,

Phần vì lo vận nước khó khăn,

Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,

Lúc Khôi Huyện quân không một đội.

Trời thử lòng trao cho mệnh lớn

Ta gắng trí khắc phục gian nan.

Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới

Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào,

Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,

Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.

Trọn hay:

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,

Lấy chí nhân để thay cường bạo.

Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,

Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.

Sĩ khí đã hăng

Quân thanh càng mạnh.

Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,

Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.

Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,

Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.

Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm

Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.

Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu

Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.

Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy

Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng.

Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt,

Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công.

Ngờ đâu vẫn đương mưu tính lại còn chuốc tội gây oan.

Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,

Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.

Bởi thế:

Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng

Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy

Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại

Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.

Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong

Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực

Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế

Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu

Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong

Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.

Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá

Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau

Lại thêm quân bốn mặt vây thành

Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc

Sĩ tốt kén người hùng hổ

Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh

Gươm mài đá, đá núi cũng mòn

Voi uống nước, nước sông phải cạn.

Đánh một trận, sạch không kình ngạc

Đánh hai trận tan tác chim muông.

Cơn gió to trút sạch lá khô,

Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.

Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,

Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.

Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường

Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước

Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,

Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ

Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!

Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.

Suối Lãnh Câu, máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc

Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.

Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,

Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng

Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng

Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh

Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,

Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.

Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng

Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.

Chẳng những mưu kế kì diệu

Cũng là chưa thấy xưa nay

Xã tắc từ đây vững bền

Giang sơn từ đây đổi mới

Càn khôn bĩ rồi lại thái

Nhật nguyệt hối rồi lại minh

Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu

Muôn thuở nền thái bình vững chắc

Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;

Than ôi!

Một cỗ nhung y chiến thắng,

Nên công oanh liệt ngàn năm

Bốn phương biển cả thanh bình,

Ban chiếu duy tân khắp chốn.

Xa gần bá cáo,

Ai nấy đều hay.

Lộ tòng kim dạ bạch,

Nguyệt thị cố hương minh

Hào khí ngút trời bình Ngô đại cáo
Hào khí ngút trời bình Ngô đại cáo

Thiên Trường vãn vọng 

Tác giả: Trần Nhân Tông 

Dịch thơ:

Trước xóm sau thôn tựa khói lồng

Bóng chiều man mác có dường không.

Mục đồng sáo vẳng trâu về hết,

Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.

Côn Sơn ca

Tác giả: Nguyễn Trãi 

Dịch thơ:

Côn Sơn suối chảy rì rầm,

Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.

Côn Sơn có đá rêu phơi,

Ta ngồi trên đá như ngồi đệm êm.

Trong ghềnh thông mọc như nêm,

Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.

Trong rừng có bóng trúc râm,

Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.

Về đi sao chẳng sớm toan,

Nửa đời vướng bụi trần hoàn làm chi?

Muôn chung chín vạc làm gì,

Cơm rau nước lã nên tùy phận thôi.

Đổng, Nguyên để tiếng trên đời,

Hồ tiêu ăm ắp, vàng mười chứa chan.

Lại kia trên núi Thú San,

Di, Tề nhịn đói chẳng màng thóc Chu.

Hai đàng khó sánh hiền ngu,

Đều làm cho thoả được như ý mình.

Trăm năm trong cuộc nhân sinh,

Người như cây cỏ thân hình nát tan.

Hết ưu lạc đến bi hoan,

Tốt tươi khô héo, tuần hoàn đổi thay.

Núi gò đài các đó đây,

Chết rồi ai biết đâu ngày nhục vinh.

Sào, Do bằng có tái sinh,

Hãy nghe khúc hát bên ghềnh Côn Sơn.

(Dịch thơ: Phan Võ - Lê Phước - Đào Phương Bình)

Tiếng đá ngân vang Côn Sơn ca thiết tha
Tiếng đá ngân vang Côn Sơn ca thiết tha

>>> Khám phá thêm: Thơ tình yêu buồn - Tiếng lòng của những trái tim cô đơn

Chinh phụ ngâm 

Tác giả: Đặng Trần Côn (năm 1741)

Dịch thơ

Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,

Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.

Xanh kia thăm thẳm tầng trên,

Vì ai gây dựng cho nên nỗi này ?

Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt,

Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây.

Chín tầng gươm báu trao tay,

Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh.

Nước thanh bình ba trăm năm cũ.

Áo nhung trao quan vũ từ đâỵ

Sứ trời sớm giục đường mây,

Phép công là trọng, niềm tây sá nào.

Đường rong ruổi lưng đeo cung tiễn,

Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa.

Bóng cờ tiếng trống xa xa,

Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng.

Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt,

Xếp bút nghiên theo việc đao cung.

Thành liền mong tiến bệ rồng,

Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời.

Chí làm trai dặm nghìn da ngựa,

Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.

Dã nhà đeo bức chiến bào,

Thét roi cầu Vị, ào ào gió thu.

Ngòi đầu cầu nước trong như lọc,

Đường bên cầu cỏ mọc còn non.

Đưa chàng lòng dằng dặc buồn,

Bộ khôn bằng ngựa, thuỷ khôn bằng thuyền.

Nước có chảy mà phiền chẳng rửa,

Cỏ có thơm mà dạ chẳng khuây.

Nhủ rồi nhủ lại cầm tay,

Bước đi một bước dây dây lại dừng.

Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi,

Dạ chàng xa tìm cõi Thiên San.

Múa gươm rượu tiễn chưa tàn,

Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo.

Săn Lâu Lan, rằng theo Giới Tử,

Tới Man Khê, bàn sự Phục Ba.

Áo chàng đỏ tựa ráng pha,

Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in.

Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống,

Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay.

Hà Lương chia rẽ đường này,

Bên đường, trông bóng cờ bay ngùi ngùi.

Quân trước đã gần ngoài doanh Liễu,

Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng Dương.

Quân đưa chàng ruổi lên đường,

Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng ?

Tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng,

Hàng cờ bay trong bóng phất phơ.

Dấu chàng theo lớp mây đưa,

Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà.

Chàng thì đi cõi xa mưa gió,

Thiếp thì về buồng cũ gối chăn.

Đoái trông theo đã cách ngăn,

Tuôn màu mây biếc, trải ngần núi xanh.

Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại,

Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang.

Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương,

Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.

Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.

Ngàn dâu xanh ngắt một màu,

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai ?

Chàng từ đi vào nơi gió cát,

Đêm trăng này nghỉ mát phương nao ?

Xưa nay chiến địa dường bao,

Nội không muôn dặm xiết bao dãi dầu.

Hơi gió lạnh, người rầu mặt dạn,

Dòng nước sâu, ngựa nản chân bon.

Ôm yên gối trống đã chồn,

Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh

Nay Hán xuống Bạch Thành đóng lại,

Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua.

Hình khe, thế núi gần xa,

Dứt thôi lại nối, thấp đà lại cao.

Sương đầu núi buổi chiều như dội,

Nước lòng khe nẻo suối còn sâu.

Thương người áo giáp bấy lâu,

Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây.

Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ,

Mặt chinh phu ai vẽ cho nên ?

Tưởng chàng rong ruổi mấy niên,

Chẳng nơi Hãn Hải thì miền Tiêu Quan.

Đã trắc trở đòi ngàn xà hổ,

Lại lạnh lùng những chỗ sương phong.

Lên cao trông thức mây lồng,

Lòng nào là chẳng động lòng bi thương !

Chàng từ sang Đông Nam khơi nẻo,

Biết nay chàng tiến thảo nơi đâu ?

Những người chinh chiến bấy lâu,

Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây.

Nức hơi mạnh, ơn dày từ trước,

Trải chốn nghèo, tuổi được bao nhiêu ?

Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo,

Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.

Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,

Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi.

Chinh phu tử sĩ mấy người,

Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn.

Dấu binh lửa, nước non như cũ,

Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương.

Phận trai già ruổi chiến trường,

Chàng Siêu tóc đã điểm sương mới về.

Tưởng chàng trải nhiều bề nắng nỏ,

Ba thước gươm, một cỗ nhung yên.

Xông pha gió bãi trăng ngàn,

Tên reo đầu ngựa, giáo dan mặt thành.

Áng công danh trăm đường rộn rã,

Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi.

Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai,

Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây.

Trong cửa này đã đành phận thiếp,

Ngoài mây kia há kiếp chàng vay ?

Những mong cá nước sum vầy,

Nào ngờ đôi ngả nước mây cách vời.

Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ,

Chàng há từng học lũ vương tôn.

Cớ sao cách trở nước non,

Khiến người thôi sớm thôi hôm những sầu.

Khách phong lưu đương chừng niên thiếu,

Sánh nhau cùng dan díu chữ duyên.

Nỡ nào đôi lứa thiếu niên,

Quan sơn để cách, hàn huyên bao đành.

Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu,

Hỏi ngày về, ước nẻo quyên ca.

Nay quyên đã giục, oanh già,

Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo.

Thuở đăng đồ, mai chưa dạn gió,

Hỏi ngày về, chỉ độ đào bông.

Nay đào đã quyến gió Đông,

Phù dung lại đã bên sông bơ sờ.

Hẹn cùng ta: Lũng Tây nham ấy,

Sớm đã trông, nào thấy hơi tăm ?

Ngập ngừng, lá rụng cành trâm,

Thôn trưa nghe dậy tiếng cầm lao xao.

Hẹn nơi nao, Hán Dương cầu nọ,

Chiều lại tìm, nào thấy tiêu hao ?

Ngập ngừng gió thổi chéo bào,

Bãi hôm tuôn dẫy nước trào mênh mông.

Tin thường lại, người không thấy lại,

Gốc hoa tàn đã trải rêu xanh.

Rêu xanh mấy lớp chung quanh,

Sân đi một bước, trăm tình ngẩn ngơ.

Thư thường tới, người không thấy tới,

Bức rèm thưa lần dãi bóng dương.

Bóng dương mấy buổi xuyên ngang,

Lời sao mười hẹn, chín thường đơn sai.

Thử tính lại diễn khơi ngày ấy,

Tiền sen này đã nẩy là ba.

Xót người lần lữa ải xa,

Xót người nương chốn Hoàng Hoa dặm dài.

Tình gia thất nào ai chẳng có,

Kìa lão thân, khuê phụ nhớ thương.

Mẹ già phơ phất mái sương,

Con thơ măng sữa, vả đương phù trì.

Lòng lão thân buồn khi tựa cửa,

Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm.

Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam,

Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân.

Nay một thân nuôi già dạy trẻ,

Nỗi quan hoài mang mễ biết bao !

Nhớ chàng trải mấy sương sao,

Xuân từng đổi mới, Đông nào còn dư.

Kể năm đã ba tư cách diễn,

Mối sầu thêm nghìn vạn ngổn ngang.

Ước gì gần gũi tấc gang,

Giải niềm cay đắng để chàng tỏ hay.

Thoa cung Hán thuở ngày xuất giá,

Gương lầu Tần dấu đã soi chung.

Cậy ai mà gửi tới cùng,

Để chàng thấu hết tấm lòng tương tư.

Nhẫn đeo tay mọi khi ngắm nghía,

Ngọc cài đầu thuở bé vui chơi.

Cậy ai mà gửi tới nơi,

Để chàng trân trọng dấu người tương thân

Trải mấy xuân, tin đi tin lại,

Tới xuân này tin hãy vắng không.

Thấy nhàn, luống tưởng thư phong,

Nghe hơi sương, sắm áo bông sẵn sàng.

Gió tây nổi không đường hồng tiện,

Xót cõi ngoài tuyết quyến mưa sa.

Màn mưa trướng tuyết xông pha,

Nghĩ thêm lạnh lẽo kẻ ra cõi ngoài.

Đề chữ gấm, phong thôi lại mở,

Gieo bói tiền tin dở còn ngờ.

Trời hôm tựa bóng ngẩn ngơ,

Trăng khuya nương gối bơ phờ tóc mai.

Há như ai, hồn say bóng lẫn,

Bỗng thơ thơ thẩn thẩn như không.

Trâm cài, xiêm giắt thẹn thùng,

Lệch làn tóc rối, lỏng vòng lưng eo.

Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,

Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.

Ngoài rèm thước chẳng mách tin,

Trong rèm dường đã có đèn biết chăng ?

Đèn có biết, dường bằng chẳng biết,

Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.

Buồn rầu nói chẳng nên lời,

Hoa đèn kia với bóng người khá thương !

Gà eo óc gáy sương năm trống,

Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.

Khắc giờ đằng đẵng như niên,

Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa.

Hương gượng đốt, hồn đà mê mải,

Gương gượng soi, lệ lại chứa chan.

Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,

Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.

Lòng này gửi gió đông có tiện,

Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.

Non Yên dù chẳng tới miền,

Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.

Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,

Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.

Cảnh buồn người thiết tha lòng,

Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun.

Sương như búa bổ mòn gốc liễu,

Mưa dường cưa xẻ héo cành ngộ

Giọt sương phủ bụi chim gù,

Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi.

Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc,

Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên.

Lá màn lay ngọn gió xuyên,

Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.

Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm,

Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông.

Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,

Trước hoa, dưới nguyệt, trong lòng xiết đau.

Đâu xiết kể, muôn sầu nghìn não,

Từ nữ công, phụ xảo đều nguôi.

Biếng cầm kim, biếng đưa thoi,

Oanh đôi thẹn dệt, bướm đôi ngại thùa.

Mặt biếng tô, miệng càng biếng nói,

Sớm lại chiều, dòi dõi nương song.

Nương song luống ngẩn ngơ lòng,

Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai ?

Biếng trang điểm, lòng người sầu tủi,

Xót nỗi chàng, ngoài cõi Giang Lăng.

Khác gì ả Chức, chị Hằng,

Bến Ngân sùi sụt, cung trăng chốc mòng.

Sầu ôm nặng, hãy chồng làm gối,

Buồn chứa đầy, hãy thổi làm cơm.

Mượn hoa, mượn rượu giải buồn,

Sầu làm rượu nhạt, muộn làm hoa ôi.

Gõ sanh ngọc mấy hồi không tiếng,

Ôm đàn tranh mấy phím rời tay.

Xót người hành dịch bấy nay,

Dặm xa mong mỏi hết đầy lại vơi.

Ca quyên ghẹo, làm rơi nước mắt,

Trống tiều khua, như rứt buồng gan.

Võ vàng đổi khác dung nhan,

Khuê ly mới biết tân toan dường này.

Nếm chua cay tấm lòng mới tỏ,

Chua cay này, há có vì ai ?

Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi,

Vì chàng thân thiếp lẻ loi một bề.

Thân thiếp chẳng gần kề dưới trướng,

Lệ thiếp nào chút vướng bên khăn.

Duy còn hồn mộng được gần,

Đêm đêm thường đến Giang Tân tìm người.

Tìm chàng thuở Dương Đài lối cũ,

Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa.

Sum vầy mấy lúc tình cờ,

Chẳng qua trên gối một giờ mộng Xuân.

Giận thiếp thân lại không bằng mộng,

Được gần chàng bến Lũng, thành Quan.

Khi mơ những tiếc khi tàn,

Tình trong giấc mộng, muôn vàn cũng không !

Duy có một tấm lòng chẳng dứt,

Vốn theo chàng giờ khắc nào nguôi.

Lòng theo nhưng chửa thấy người,

Lên cao mấy lúc trông vời bánh xe.

Trông bến Nam, bãi che mặt nước,

Cỏ biếc um, dâu mướt ngàn xanh.

Nhà thôn mấy xóm chông chênh,

Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm.

Trông đường Bắc, đôi chòm quán khách,

Mây rà cây xanh ngắt núi non.

Lúa thành thoi thóp bên cồn,

Nghe thôi ngọc địch véo von bên lầu.

Non Đông thấy lá hầu chất đống,

Trĩ xập xoè, mai cũng bẻ bai.

Khói mù nghi ngút ngàn khơi,

Con chim bạt gió lạc loài kêu thương.

Lũng Tây thấy nước dường uốn khúc,

Nhạn liệng không, sóng giục thuyền câu.

Ngàn thông chen chúc chòm lau,

Cách duềnh thấp thoáng người đâu đi về.

Trông bốn bề chân trời mặt đất,

Lên xuống lầu thấm thoát đòi phen.

Lớp mây ngừng mắt ngại nhìn,

Biết đâu chinh chiến là miền Ngọc Quan ?

Gậy rút đất dễ khôn học chước,

Khăn gieo cầu nào được thấy tiên.

Lòng này hóa đá cũng nên,

E không lệ ngọc mà lên trông lầu.

Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu,

Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong.

Chẳng hay muôn dặm ruổi giong,

Lòng càng có cũng như lòng thiếp chăng ?

Lòng chàng ví cũng bằng như thế,

Lòng thiếp đâu dám nghĩ gần xa.

Hướng dương lòng thiếp như hoa,

Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương.

Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái,

Hoa để vàng bởi tại bóng dương.

Hoa vàng hoa rụng quanh tường,

Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần.

Chồi lan nọ trước sân đã hái,

Ngọn tần kia bên bãi đưa hương.

Sửa xiêm dạo bước tiền đường,

Ngửa trông xem vẻ thiên chương thẫn thờ.

Bóng Ngân Hà khi mờ khi tỏ,

Độ Khuê Triền buổi có buổi không.

Thức mây đòi lúc nhạt nồng,

Chuôi sao Bắc Đẩu thôi Đông lại Đoài.

Mặt trăng tỏ thường soi bên gối,

Bừng mắt trông sương gội cành ngô.

Lạnh lùng thay bấy chiều thu,

Gió may hiu hắt trên đầu tường vôi .

Một năm một nhạt mùi son phấn,

Trượng phu còn thơ thẩn miền khơi.

Xưa sao hình ảnh chẳng rời,

Bây giờ nỡ để cách vời Sâm Thương.

Chàng ruổi ngựa dặm trường mây phủ,

Thiếp dạo hài lầu cũ rêu in.

Gió Xuân ngày một vắng tin,

Khá thương lỡ hết mấy phen lương thì.

Xảy nhớ khi cành Diêu đóa Ngụy,

Trước gió xuân vàng tía sánh nhau.

Nọ thì ả Chức chàng Ngâu,

Tới trăng thu lại bắc cầu sang sông.

Thương một kẻ phòng không luống giữ,

Thời tiết lành lầm lỡ đòi nau.

Thoi đưa ngày tháng ruổi mau,

Người đời thấm thoắt qua màu xuân xanh.

Xuân thu để giận quanh ở dạ,

Hợp ly đành buồn quá khi vui.

Oán sầu nhiều nỗi tơi bời,

Vóc bồ liễu dễ ép nài chiều xuân.

Kìa Văn Quân mỹ miều thuở trước,

E đến khi đầu bạc mà thương.

Mặt hoa nọ gã Phan Lang,

Sợ khi mái tóc pha sương cũng ngừng.

Nghĩ nhan sắc đương chừng hoa nở,

Tiếc quang âm lần lữa gieo qua.

Nghĩ mệnh bạc, tiếc niên hoa,

Gái tơ mấy chốc xảy ra nạ dòng.

Gác nguyệt nọ mơ màng vẻ mặt,

Lầu hoa kia phảng phất hơi hương.

Trách trời sao để lỡ làng,

Thiếp rầu thiếp lại rầu chàng chẳng quên.

Chàng chẳng thấy chim uyên ở nội,

Cũng dập dìu, chẳng vội phân trương.

Chẳng xem chim yến trên rường,

Bạc đầu không nỡ đôi đường rẽ nhau.

Kìa loài sâu đôi đầu cùng sánh,

Nọ loài chim chắp cánh cùng bay.

Liễu, sen là thức cỏ cây,

Đôi hoa cùng sánh, đôi dây cùng liền.

Ấy loài vật tình duyên còn thế,

Sao kiếp người nỡ để đấy đây ?

Thiếp xin muôn kiếp sau này,

Như chim liền cánh, như cây liền cành.

Đành muôn kiếp chữ tình đã vậy,

Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau.

Thiếp xin chàng chớ bạc đầu,

Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung.

Xin làm bóng theo cùng chàng vậy,

Chàng đi đâu cũng thấy thiếp bên.

Chàng nương vầng nhật, thiếp nguyền,

Mọi bề trung hiếu thiếp xin vẹn tròn.

Lòng hứa quốc tựa son ngăn ngắt,

Sức tý dân dường sắt tri tri.

Máu Thuyền Vu, quắc Nhục Chi,

Ấy thì bữa uống, ấy thì bữa ăn.

Mũi đòng vác đòi lần hăm hở,

Đã lòng trời gìn giữ người trung.

Hộ chàng trăm trận nên công,

Buông tên ải Bắc, treo cung non Đoài.

Bóng kỳ xí giã ngoài quan ải,

Tiếng khải ca trở lại Thần Kinh.

Đỉnh non khắc đá đề danh,

Triều thiên vào trước cung đình dâng công.

Nước duềnh Hán việc đòng rửa sạch,

Khúc nhạc từ réo rắt lừng khen.

Tài so Tần, Hoắc vẹn tuyền,

Tên ghi gác Khói, tượng truyền đài Lân.

Nền huân tướng đai cân rạng vẻ,

Chữ đồng hưu bia để nghìn đông.

Ơn trên tử ấm thê phong,

Hiển vinh thiếp cũng đượm chung hương trời.

Thiếp chẳng dại như người Tô Phụ,

Chàng hẳn không kém lũ Lạc Dương.

Khi về chẳng quả ấn vàng,

Trên khung cửi dám dẫy duồng làm cao.

Xin vì chàng xếp bào cởi giáp,

Xin vì chàng giũ lớp phong sương.

Vì chàng tay chuốc chén vàng,

Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng.

Giở khăn lệ, chàng trông từng tấm,

Đọc thơ sầu, chàng thẩm từng câu.

Câu vui đổi với câu sầu,

Rượu khà cùng kể trước sau mọi lời.

Sẽ rót vơi lần lần từng chén,

Sẽ ca dần ren rén đòi liên.

Liên ngâm đối ẩm đòi phen,

Cùng chàng lại kết mối duyên đến già.

Cho bõ lúc xa sầu, cách nhớ,

Giữ gìn nhau vui thuở thanh bình.

Ngâm nga mong gửi chữ tình,

Dường này âu hẳn tài lành trượng phu !

(Dịch thơ: Đoàn Thị Điểm)


Nỗi buồn đất nước chinh phụ ngâm động lòng

Bài thơ của một người yêu nước mình

Tác giả: Trần Vàng Sao (năm 1967)

Buổi sáng tôi mặc áo đi giày 

Ra đứng ngoài đường

Gió thổi những bông nứa trắng bên sông

Mùi tóc khô còn thơm lúa mùa qua

Bầy chim sẻ đậu trước sân nhà

Những đứa trẻ đứng nhìn ngấp nghé

Tôi yêu đất nước này như thế

Mỗi buổi mai

Bầy chim sẻ ngoài sân

Gió mát và trong

Đường đi đầy cỏ may và muộn chuộng

Tôi vẫn sống

Vẫn ăn

Vẫn thở

Như mọi người

Đôi khi chợt nhớ một tiếng cười lạ

Một câu ca dao buồn có hoa bưởi hoa ngâu

Một vết bùn khô trên mặt đá

Không có ai chia tay

Cũng nhớ một tiếng còi tàu.

Mẹ tôi thức khuya dậy sớm

Năm nay ngoài năm mươi tuổi

Chồng chết đã mười mấy năm

Thuở tôi mới đọc được i tờ

Mẹ thương tôi mẹ vẫn tảo tần

Nước sông gạo chợ

Ngày hai buổi nhà không khi nào vắng người đòi nợ

Sống qua ngày nên phải nghiến răng

Cũng không vui nên mẹ ít khi cười

Những buổi trưa buổi tối

Ngồi một mình hay khóc

Vẫn thở dài mà không nói ra

Thương con không cha

Hẩm hiu côi cút

Tôi yêu đất nước này xót xa

Mẹ tôi nuôi tôi mười mấy năm không lấy chồng

Thương tôi nên ở góa nuôi tôi

Những đứa nhà giàu hằng ngày chửi bới

Chúng cho mẹ con tôi áo quần tiền bạc,

Như cho một đứa hủi

Ngày kỵ cha họ hàng thân thích không ai tới

Thắp ba cây hương

Với mấy bông hải đường

Mẹ tôi khóc thút thít

Cầu cha tôi phù hộ tôi nên người

Con nó còn nhỏ dại

Trí chưa khôn chân chưa vững bước đi

Tôi một mình nuôi nó có kể chi mưa nắng

Tôi yêu đất nước này cay đắng

Những năm dài thắp đuốc đi đêm

Quen thân rồi không ai còn nhớ tên

Dĩ vãng đè trên lưng thấm nặng

Áo mồ hôi những buổi chợ về

Đời cúi thấp

Giành từng lon gạo mốc,

Từng cọng rau hột muối

Vui sao khi con bữa đói bữa no

Mẹ thương con nên cách trở sông đò

Hàng gánh nặng phải qua cầu xuống dốc

Đêm nào mẹ cũng khóc

Đêm nào mẹ cũng khấn thầm

Mong con khôn lớn cất mặt với đời

Tôi yêu đất nước này khôn nguôi

Tôi yêu mẹ tôi áo rách

Chẳng khi nào nhớ tuổi mình bao nhiêu.

Tôi bước đi

Mưa mỗi lúc mỗi to,

Sao hôm nay lòng thấy chật

Như buổi sáng mùa đông chưa thấy mặt trời mọc

Con sông dài nằm nhớ những chặng rừng đi qua

Nỗi mệt mỏi, rưng rưng từng con nước

Chim đậu trên cành chim không hót

Khoảng vắng mùa thu ngủ trên cỏ may

Tôi yêu đất nước này những buổi mai

Không ai cười không tiếng hát trẻ con

Đất đá cỏ cây ơi

Lòng vẫn thương mẹ nhớ cha

Ăn quán nằm cầu

Hai hàng nước mắt chảy ra

Mỗi đêm cầu trời khấn phật, tai qua nạn khỏi

Tôi yêu đất nước này áo rách

Căn nhà dột phên không ngăn nổi gió

Vẫn yêu nhau trong từng hơi thở

Lòng vẫn thương cây nhớ cội hoài

Thắp đèn đêm ngồi đợi mặt trời mai

Tôi yêu đất nước này như thế

Như yêu cây cỏ ở trong vườn

Như yêu mẹ tôi chịu khó chịu thương

Nuôi tôi thành người hôm nay

Yêu một giọng hát hay

Có bài mái đẩy thơm hoa dại

Có sáu câu vọng cổ chứa chan

Có ba ông táo thờ trong bếp

Và tuổi thơ buồn như giọt nước trong lá sen

Tôi yêu đất nước này và tôi yêu em

Thuở tóc kẹp tuổi ngoan học trò

Áo trắng và chùm hoa phượng đỏ

Trong bước chân chim sẻ

Ngồi học bài và gọi nhỏ tên tôi

Hay nói chuyện huyên thuyên

Chuyện trên trời dưới đất rất lạ

Chuyện bông hoa mọc một mình trên đá

Cứ hay cười mà không biết có người buồn.

Sáng hôm nay gió lạnh vẫn còn

Khi xa nhà vẫn muốn ngoái lại

Ngó cây cam cây vải

Thương mẹ già như chuối ba hương

Em chưa buồn

Vì chưa rách áo

Tôi yêu đất nước này rau cháo

Bốn ngàn năm cuốc bẫm cày sâu

Áo đứt nút qua cầu gió bay

Tuổi thơ em hãy giữ cho ngoan

Tôi yêu đất nước này lầm than

Mẹ đốt củi trên rừng cha làm cá ngoài biển

Ăn rau rìu rau éo rau trai

Nuôi lớn người từ ngày mở đất

Bốn ngàn năm nằm gai nếm mật

Một tấc lòng cũng trứng Âu Cơ

Một tiếng nói cũng đầy hồn Thánh Gióng.

Tôi đi hết một ngày

Gặp toàn người lạ

Chưa ai biết chưa ai quen

Không biết tuổi không biết tên

Cùng sống chung trên đất

Cùng nỗi đau chia cắt Bắc Nam

Cùng có chung tên gọi Việt Nam

Mang vết thương chảy máu ngoài tim

Cùng nhức nhối với người chết oan ức

Đấm ngực giận hờn tức tối

Cùng anh em cất cao tiếng nói

Bản tuyên ngôn mười bốn triệu người đòi độc lập tự do

Bữa ăn nào cũng phải được no

Mùa lạnh phải có áo ấm

Được nói cười hát ca yêu đương không ai cấm

Được thờ cúng những người mình tôn kính

Hai mươi năm cuộc đời chưa khi nào định.

Tôi trở về căn nhà nhỏ

Đèn thắp ngọn lù mù

Gió thổi trong lá cây xào xạc

Vườn đêm thơm mát

Bát canh rau dền có ớt chìa vôi

Bên hàng xóm có tiếng trẻ con khóc

Mẹ bồng con lên non ngồi cầu Ái tử

Đất nước hôm nay đã thấm hồn người

Ve sắp kêu mùa hạ

Nên không còn mấy thu

Đất nước này còn chua xót

Nên trông ngày thống nhất

Cho bên kia không gọi bên này là người miền Nam

Cho bên này không gọi bên kia là người miền Bắc

Lòng vui hôm nay không thấy chật

Tôi yêu đất nước này chân thật

Như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tôi

Như yêu em nụ hôn ngọt trên môi

Và yêu tôi đã biết làm người

Cứ trông đất nước mình thống nhất.

Lời thơ da diết bài thơ của một người yêu nước mình
Lời thơ da diết bài thơ của một người yêu nước mình

>>> Khám phá thêm: Thơ hoa hướng dương - Biểu tượng của niềm tin và hy vọng

Gửi em cô thanh niên xung phong

Tác giả: Phạm Tiến Duật (năm 1968)

Có lẽ nào anh lại mê em

Một cô gái không nhìn rõ mặt

Ðại đội thanh niên đi lấp hố bom

Áo em hình như trắng nhất

Người tinh nghịch là anh dễ thân

Bởi vì thế có em đứng gần

Em ở Thạch Kim sao lại lừa anh nói là “Thạch Nhọn”

Ðêm ranh mãnh ngăn cái nhìn đưa đón

Em đóng cọc rào quanh hố bom

Cái miệng em ngoa cho bạn cười giòn

Tiếng Hà tĩnh nghe buồn cười đáo để

Anh lặng người như trôi trong tiếng ru.

Tranh thủ có ánh sáng đèn dù

Anh vội nhìn em và bạn em khắp lượt

Mọi người cũng tò mò nhìn anh

Rồi bóng tối lại khép vào bóng tối

Em ơi em, hãy nghe anh hỏi

Xong đoạn đường này các em làm đâu

Anh đã tìm em rất lâu, rất lâu

Cô gái ở Thạch Kim Thạch Nhọn

Khăn xanh, khăn xanh phơi đầy lán sớm

Sách giấy mở tung trắng cả rừng chiều.

Anh đã đi rất nhiều, rất nhiều

Những con đường như tình yêu mới mẻ

Ðất rất hồng và người rất trẻ

Nhưng chẳng thấy em, cô gái ở Thạch Nhọn Thạch Kim

Những đội làm đường hành quân trong đêm

Nào cuốc nào choòng xoong nồi xủng xoảng

Rực rỡ mặt đất bình minh

Hấp hối chân trời pháo sáng

Ðường trong tim anh in những dấu chân.

Chiếc võng bạc trên đường hành quân

Anh đã buộc nhiều cây xoan cây ổi

Lại đường mới và hàng nghìn cô gái

Ở đâu em tinh nghịch của anh?

Bụi mù trời mùa hanh

Nước trắng khe mùa lũ

Ðêm rộng dài là đêm không ngủ

Em vẫn đi, đường vẫn liền đường

Cạnh giếng nước có bom từ trường

Em không rửa ngủ ngày chân lấm

Ngày em phá nhiều bom nổ chậm

Ðêm nằm mơ nói mớ vang nhà

Chuyện kể từ nỗi nhớ sâu xa

Thương em, thương em, thương em biết mấy...

Dừng tay cuốc khi em ngoảnh lại

Sẽ giật mình đường mới ta xây

Ðã có độ dài hơn cả độ dài

Của đường xá đời xưa để lại

Sẽ ra về bao nhiêu cô gái

Một ngày mai đường sẽ đứng chơ vơ

Ðể cho đời sau còn thấy ngẩn ngơ

Trước những công trình ngoằn ngoèo trên mặt đất.

Ơi em gái chưa một lần rõ mặt

Có lẽ nào anh lại mê em

Từ cái đêm Thạch Nhọn Thạch Kim

Tên em đã thành tên chung anh gọi:

Em là cô thanh niên xung phong.

Thương mến gửi tặng gửi em cô thanh niên xung phong
Thương mến gửi tặng gửi em cô thanh niên xung phong

Thơ ca yêu nước của các thi sĩ không chỉ là tiếng lòng tự hào, mà còn là ngọn lửa thắp sáng lý tưởng sống, là lời nhắc nhớ về cội nguồn, hun đúc tinh thần yêu nước cho bao thế hệ người Việt.

 

Bình Luận

Địa chỉ email của bạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu.