Thơ ca lịch sử Việt Nam - Vang vọng hào khí ngàn năm

Lịch sử Việt Nam là dòng chảy bất tận của những chiến công hiển hách và lòng yêu nước nồng nàn. Qua thơ ca, những trang sử oai hùng ấy được tái hiện sống động, truyền cảm hứng mạnh mẽ cho thế hệ hôm nay và mai sau.

Hịch xuất quân

Tác giả: Quang Trung - Nguyễn Huệ

Ðánh cho để dài tóc

Ðánh cho để đen răng

Ðánh cho nó chích luân bất phản

Ðánh cho nó phiến giáp bất hoàn

Ðánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ.

Hào khí dâng trào từ Hịch xuất quân
Hào khí dâng trào từ Hịch xuất quân

Lịch sử nước ta

Tác giả: Hồ Chí Minh

Dân ta phải biết sử ta,

Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.

Kể năm hơn bốn ngàn năm,

Tổ tiên rực rỡ, anh em thuận hoà.

Hồng Bàng là tổ nước ta.

Nước ta lúc ấy gọi là Văn Lang.

Thiếu niên ta rất vẻ vang,

Trẻ con Phù Đổng tiếng vang muôn đời.

Tuổi tuy chưa đến chín mười,

Ra tay cứu nước dẹp loài vô lương.

An Dương Vương thế Hùng Vương,

Quốc danh Âu Lạc cầm quyền trị dân.

Triệu Đà là vị hiền quân,

Quốc danh Nam Việt trị dân năm đời.

Nước Tàu cậy thế đông người,

Kéo quân áp bức giống nòi Việt Nam.

Quân Tàu nhiều kẻ tham lam,

Dân ta há dễ chịu làm tôi ngươi?

Hai Bà Trưng có đại tài,

Phất cờ khởi nghĩa giết người tà gian,

Ra tay khôi phục giang san,

Tiếng thơm dài tạc đá vàng nước ta.

Tỉnh Thanh Hoá có một bà,

Tên là Triệu Ẩu tuổi vừa đôi mươi,

Tài năng dũng cảm hơn người,

Khởi binh cứu nước muôn đời lưu phương.

Phụ nữ ta chẳng tầm thường,

Đánh Đông, dẹp Bắc làm gương để đời,

Kể gần sáu trăm năm giời,

Ta không đoàn kết bị người tính thôn.

Anh hùng thay ông Lý Bôn,

Tài kiêm văn võ, sức hơn muôn người,

Đánh Tàu đuổi sạch ra ngoài.

Lập nên Triều Lý sáu mươi năm liền.

Vì Lý Phật Tử ngu hèn,

Để cho Tàu lại xâm quyền nước ta.

Thương dân cực khổ xót xa,

Ông Mai Hắc Đế đứng ra đánh Tàu,

Vì dân đoàn kết chưa sâu,

Cho nên thất bại trước sau mấy lần.

Ngô Quyền quê ở Đường Lâm,

Cứu dân ra khỏi cát lầm ngàn năm.

Đến hồi Thập nhị sứ quân,

Bốn phương loạn lạc, muôn dân cơ hàn.

Động Hoa Lư có Tiên Hoàng,

Nổi lên gây dựng triều đàng họ Đinh.

Ra tài kiến thiết kinh dinh,

Đến vua Phế Đế chỉ kinh hai đời.

Lê Đại Hành nối lên ngôi.

Đánh tan quân Tống, đuổi lui Xiêm Thành.

Vì con bạo ngược hoành hành,

Ra đời thì đã tan tành nghiệp vương.

Công Uẩn là kẻ phi thường,

Dựng lên nhà Lý cầm quyền nước ta.

Mở mang văn hoá nước nhà,

Đắp đê để giữ ruộng nhà cho dân.

Lý Thường Kiệt là hiền thần,

Đuổi quân nhà Tống, phá quân Xiêm Thành.

Tuổi già phỉ chí công danh,

Mà lòng yêu nước trung thành không phai.

Họ Lý truyền được chín đời,

Hai trăm mười sáu năm giời thì tan.

Nhà Trần thống trị giang san,

Trị yên trong nước, đánh tan địch ngoài,

Quân Nguyên binh giỏi tướng tài:

Đánh đâu được đấy, dông dài Á, Âu,

Tung hoành chiếm nửa Âu châu,

Chiếm Cao Ly, lấy nước Tàu bao la,

Lăm le muốn chiếm nước ta,

Năm mươi vạn lính vượt qua biên thuỳ,

Hải quân theo bể kéo đi,

Hai đường vây kín Bắc Kỳ như nen.

Dân ta nào có chịu hèn,

Đồng tâm, hợp lực mấy phen đuổi Tàu.

Ông Trần Hưng Đạo cầm đầu,

Dùng mưu du kích đánh Tàu tan hoang,

Mênh mông một giải Bạch Đằng,

Nghìn thu soi rạng giống dòng quang vinh,

Hai lần đại phá Nguyên binh,

Làm cho Tàu phải thất kinh rụng rời.

Quốc Toản là trẻ có tài,

Mới mười sáu tuổi ra oai trận tiền,

Mấy lần đánh thắng quân Nguyên,

Được phong làm tướng cầm quyền binh nhung.

Thật là một đấng anh hùng,

Trẻ con Nam Việt nên cùng noi theo.

Đời Trần văn giỏi võ nhiều,

Ngoài dân thịnh vượng, trong triều hiền minh.

Mười hai đời được hiển vinh,

Đến Trần Phế Đế nước mình suy vi.

Cha con nhà Hồ Quý Ly,

Giết vua tiếm vị một kỳ bảy niên.

Tình hình trong nước không yên,

Tàu qua xâm chiếm giữ quyền mấy lâu,

Bao nhiêu của cải trân châu,

Chúng vơ vét chở về Tàu sạch trơn.

Lê Lợi khởi nghĩa Lam Sơn,

Mặc dầu tướng ít binh đơn không nàn.

Mấy phen sông Nhị núi Lam,

Thanh gươm yên ngựa Bắc, Nam ngang tàng.

Kìa Tuý Động nọ Chi Lăng,

Đánh hai mươi vạn quân Minh tan tành.

Mười năm sự nghiệp hoàn thành,

Nước ta thoát khỏi cái vành nguy nan.

Vì dân hăng hái kết đoàn,

Nên khôi phục chóng giang san Lạc Hồng.

Vua hiền có Lê Thánh Tông,

Mở mang bờ cõi đã khôn lại lành.

Trăm năm truyền đến cung hoàng,

Mạc Đăng Dung đã hoành hành chiếm ngôi.

Bấy giờ trong nước lôi thôi,

Lê nam, Mạc bắc rạch đôi san hà,

Bảy mươi năm nạn can qua.

Cuối đời mười sáu Mạc đà suy vi.

Từ đời mười sáu trở đi,

Vua Lê, Chúa Trịnh chia vì khá lâu.

Nguyễn Nam, Trịnh Bắc đánh nhau,

Thấy dân cực khổ mà đau đớn lòng.

Dân gian có kẻ anh hùng,

Anh em Nguyễn Nhạc nổi vùng Tây Sơn,

Đóng đô ở đất Quy Nhơn,

Đánh tan Trịnh, Nguyễn, cứu dân đảo huyền.

Nhà Lê cũng bị mất quyền,

Ba trăm sáu chục năm truyền vị vương.

Nguyễn Huệ là kẻ phi thường,

Mấy lần đánh đuổi giặc Xiêm, giặc Tàu,

Ông đà chí cả mưu cao,

Dân ta lại biết cùng nhau một lòng.

Cho nên Tàu dẫu làm hung,

Dân ta vẫn giữ non sông nước nhà.

Tướng Tây Sơn có một bà,

Bùi là nguyên họ, tên là Thị Xuân,

Tay bà thống đốc ba quân,

Đánh hơn mấy trận, địch nhân liệt là.

Gia Long lại dấy can qua,

Bị Tây Sơn đuổi, chạy ra nước ngoài.

Tự mình đã chẳng có tài,

Nhờ Tây qua cứu, tính bài giải vây.

Nay ta mất nước thế này,

Cũng vì vua Nguyễn rước Tây vào nhà,

Khác gì cõng rắn cắn gà,

Rước voi dầy mả, thiệt là ngu si.

Từ năm Tân Hợi trở đi,

Tây đà gây chuyện thị phi với mình.

Vậy mà vua chúa triều đình,

Khư khư cứ tưởng là mình khôn ngoan.

Nay ta nước mất nhà tan

Cũng vì những lũ vua quan ngu hèn.

Năm Tự Đức thập nhất niên,

Nam Kỳ đã lọt dưới quyền giặc Tây.

Hăm lăm năm sau trận này,

Trung Kỳ cũng mất, Bắc Kỳ cũng tan,

Ngàn năm gấm vóc giang san,

Bị vua họ Nguyễn đem hàng cho Tây!

Tội kia càng đắp càng đầy,

Sự tình càng nghĩ càng cay đắng lòng.

Nước ta nhiều kẻ tôi trung,

Tấm lòng tiết nghĩa rạng cùng tuyết sương.

Hoàng Diệu với Nguyễn Tri Phương,

Cùng thành còn mất làm gương để đời.

Nước ta bị Pháp cướp rồi,

Ngọn cờ khởi nghĩa nhiều nơi lẫy lừng;

Trung Kỳ đảng Phan Đình Phùng

Ra tay đánh Pháp, vẫy vùng một phương.

Mấy năm ra sức Cần Vương,

Bọn ông Tán Thuật nổi đường Hưng Yên,

Giang san độc lập một miền,

Ông Hoàng Hoa Thám đất Yên tung hoành.

Anh em khố đỏ, khố xanh,

Mưu khởi nghĩa tại Hà thành năm xưa,

Tỉnh Thái Nguyên với Sầm Nưa,

Kế nhau khởi nghĩa rủi chưa được toàn.

Kìa Yên Bái, nọ Nghệ An

Hai lần khởi nghĩa tiếng vang hoàn cầu.

Nam Kỳ im lặng đã lâu,

Năm kia khởi nghĩa đương đầu với Tây.

Bắc Sơn đó, Đô Lương đây!

Kéo cờ khởi nghĩa, đánh Tây bạo tàn.

Xét trong lịch sử Việt Nam,

Dân ta vốn cũng vẻ vang anh hùng.

Nhiều phen đánh bắc dẹp đông,

Oanh oanh liệt liệt con Rồng cháu Tiên.

Ngày nay đến nỗi nghèo hèn,

Vì ta chỉ biết lo yên một mình.

Để người đè nén, xem khinh,

Để người bóc lột ra tình tôi ngươi!

Bây giờ Pháp mất nước rồi,

Không đủ sức, không đủ người trị ta.

Giặc Nhật Bản thì mới qua,

Cái nền thống trị chưa ra mối mành.

Lại cùng Tàu, Mỹ, Hà, Anh,

Khắp nơi có cuộc chiến tranh rầy rà.

Ấy là nhịp tốt cho ta,

Nổi lên khôi phục nước nhà tổ tông.

Người chúng ít, người mình đông

Dân ta chỉ cốt đồng lòng là nên.

Hỡi ai con cháu Rồng Tiên!

Mau mau đoàn kết vững bền cùng nhau.

Bất kỳ nam nữ, nghèo giàu,

Bất kỳ già trẻ cùng nhau kết đoàn.

Người giúp sức, kẻ giúp tiền,

Cùng nhau giành lấy chủ quyền của ta.

Trên vì nước, dưới vì nhà,

Ấy là sự nghiệp, ấy là công danh.

Chúng ta có hội Việt Minh

Đủ tài lãnh đạo chúng mình đấu tranh

Mai sau sự nghiệp hoàn thành

Rõ tên Nam Việt, rạng danh Lạc Hồng

Dân ta xin nhớ chữ đồng:

Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh!

Những năm quan trọng:

Trước Tây lịch

- 2879 - Hồng Bàng

- 111 - Tàu lấy nước ra lần đầu

Sau Tây lịch

40 - Hai Bà Trưng đánh Tàu

248 - Bà Triệu ẩu khởi nghĩa

544 - Vua Lý đánh Tàu

603 - Tàu lấy nước ta

939 - Vua Ngô khởi nghĩa

968 - Đời vua Đinh (12 năm)

981 - Đời vua Tiền Lê (29 năm)

1010 - Đời vua Hậu Lý (215 năm)

1073 - Lý Thường Kiệt đánh Tàu

1225 - Đời vua Trần (175 năm)

1283 - Trần Hưng Đạo đánh Tàu

1407 - Tàu lấy nước ta

1427 - Vua Lê khởi nghĩa

1543 - Đời vua Hậu Lê (360 năm)

1545 - Vua Lê Chúa Trịnh

1771 - Đời vua Tây Sơn (24 năm)

1789 - Vua Nguyễn Huệ đánh Tàu

1794 - Gia Long thông với Tây

1847 - Tây bắt đầu đánh nước ta

1862 - Vua nhà Nguyễn bắt đầu hàng Tây

1889 - Ông Đề Thám khởi nghĩa

1893 - Ông Phan Đình Phùng khởi nghĩa

1916 - Trung Kỳ khởi nghĩa

1917 - Thái Nguyên, Sầm Nưa khởi nghĩa

1930 - Yên Bái, Nghệ An khởi nghĩa

1940 - Bắc Sơn và Đô Lương khởi nghĩa

1941 - Nam Kỳ khởi nghĩa

1945 - Việt Nam độc lập

 

Tự hào ôn lại lịch sử nước ta ngàn năm
Tự hào ôn lại lịch sử nước ta ngàn năm

>>> Khám phá thêm: Thơ về cựu chiến binh - Hồi ức một thời hoa lửa

Người đi tìm hình của nước

Tác giả: Chế Lan Viên

Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi

Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác

Khi bờ bãi dần lui làng xóm khuất

Bốn phía nhìn không một bóng hàng tre 

Đêm xa nước đầu tiên, ai nỡ ngủ

Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương

Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở

Xa nước rồi, càng hiểu nước đau thương

Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp

Giấc mơ con đè nát cuộc đời con

Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp

Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn

Trăm cơn mơ không chống nổi một đêm dày

Ta lại mặc cho mưa tuôn và gió thổi

Lòng ta thành con rối

Cho cuộc đời  giật dây

Quanh hồ Gươm không ai bàn chuyện vua Lê

Lòng ta đã thành rêu phong chuyện cũ

Hiểu sao hết những tấm lòng lãnh tụ

Tìm đường đi cho dân tộc theo đi

Hiểu sao hết “Người đi tìm hình của Nước”

Không phải hình một bài thơ đá tạc nên người

Một góc quê hương nửa đời quen thuộc

Hay một đấng vô hình sương khói xa xôi

Mà hình đất nước hoặc còn hoặc mất

Sắc vàng nghìn xưa, sắc đỏ tương lai

Thế đi đứng của toàn dân tộc

Một cách vinh hoa cho hai mươi lăm triệu con người

Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê

Một viên gạch hồng, Bác chống lại cả một mùa băng giá

Và sương mù thành Luân Đôn, ngươi có nhớ

Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya?

Đời bồi tàu lênh đênh theo sóng bể

Người đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ, châu Phi

Những đất tự do, những trời nô lệ

Những con đường cách mạng đang tìm đi

Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước

Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà

Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc

Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa

Ngày mai dân ta sẽ sống sao đây?

Sông Hồng chảy về đâu? Và lịch sử?

Bao giờ dải Trường Sơn bừng giấc ngủ

Cánh tay thần Phù Đổng sẽ vươn mây?

Rồi cờ sẽ ra sao? Tiếng hát sẽ ra sao?

Nụ cười sẽ ra sao?

Ơi, độc lập!

Xanh biết mấy là trời xanh Tổ quốc

Khi tự do về chói ở trên đầu

Kìa mặt trời Nga bừng chói ở phương Đông

Cây cay đắng đã ra mùa quả ngọt

Người cay đắng đã chia phần hạnh phúc

Sao vàng bay theo liềm búa công nông

Luận cương đến Bác Hồ. Và Người đã khóc

Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin

Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp

Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin

Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc

“Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!”

Hình của Đảng lồng trong hình của Nước

Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười

Bác thấy:

           dân ta bưng bát cơm mồ hôi nước mắt

Ruộng theo trâu về lại với người cày

Mỏ thiếc, hầm than, rừng vàng, bể bạc

Không còn người bỏ xác bên đường ray

Giặc nước đuổi xong rồi. Trời xanh thành tiếng hát

Điện theo trăng vào phòng ngủ công nhân

Những kẻ quê mùa đã thành trí thức

Tăm tối cần lao nay hoá những anh hùng

Nước Việt Nam nghìn năm Đinh Lý Trần Lê

Thành nước Việt nhân dân trong mát suối

Mái rạ nghìn năm hồng thay sắc ngói

Những đời thường cũng có bóng hoa che

Ôi! Đường đến với Lênin là đường về Tổ quốc...

Tuyết Mat-xcơ-va sáng ấy lạnh trăm lần

Trong tuyết trắng như đọng nhiều nước mắt

Lênin mất rồi. Nhưng Bác chẳng dừng chân

Luận cương của Lênin theo Người về quê Việt

Biên giới còn xa. Nhưng Bác thấy đã đến rồi

Kìa, bóng Bác đang hôn lên hòn đất

Lắng nghe trong màu hồng, hình đất nước phôi thai

Lặng nghe thơ kể người đi tìm hình của nước
Lặng nghe thơ kể người đi tìm hình của nước

Bạch Đằng Giang

Tác giả: Trần Đức Phổ

Giặc Hán tham tàn ảo vọng ngông

Hoằng Thao tưởng dễ diệt dân Hồng

Đem tài trí mọn treo đầu đẳng

Bạt vía mạng hèn bỏ đáy sông

Thuở trước Ngô Quyền vung kiếm thép

Ngày sau Quốc Tuấn trỏ gươm đồng

Lừng danh đất Việt trang hùng sử

Sóng vỗ Bạch Đằng sáng cõi đông!

Một chiều hè lịch sử

Tác giả: Hoàng Vượng

Đêm hè trăng gió mát,

Ngồi trên chõng tre êm,

Cha kể chuyện Điên Biên

Bộ đội mình chiến thắng,

Lũ Tây bị bắt sống,

Ta giải đi từng đàn,

Tướng Đờ Cát xin hàng,

Bốt đồn đều san phẳng.

Cờ quyết chiến quyết thắng,

Tung bay trên nóc hầm.

Chiều mùng bảy tháng năm,

Một chiều hè lịch sử.

Bài thơ quê hương

Tác giả: Nguyễn Bính

Trải nghìn dặm trời mây bạn tới.

Thăm quê tôi, tôi rất đỗi vui mừng!

Bạn nán lại cùng tôi thêm buổi nữa.

Để tôi xin kể nốt chuyện quê hương

...Quê hương tôi có cây bầu cây nhị

Tiếng “đàn kêu tích tịch tình tang...”

Có cô Tấm náu mình trong quả thị,

Có người em may túi đúng ba gang.

Quê hương tôi có ca dao tục ngữ,

Ông trăng tròn thường xuống mọi nhà chơi.

Một đĩa muối cũng mặn tình chồng vợ,

Một dây trầu cũng nhắc chuyện lứa đôi.

Con chim nhỏ cũng đau hồn nước mất

“Cuốc cuốc” kêu rỏ máu những đêm vàng

Chân ngựa đá cũng dính bùn trận mạc.

Theo người đi cứu nước chống xâm lăng.

Quê hương tôi có bà Trưng, bà Triệu

Cưỡi đầu voi, dấy nghĩa, trả thù chung.

Ông Lê Lợi đã trường kỳ kháng chiến,

Hưng Đạo vương đã mở hội Diên Hồng.

Quê hương tôi có múa xoè, hát đúm,

Có hội xuân liên tiếp những đêm chèo.

Có Nguyễn Trãi, có “Bình Ngô đại cáo”.

Có Nguyễn Du và có một “Truyện Kiều”.

Quê hương tôi có Trường Sơn một dải,

Có Hồng Hà lại có Cửu Long Giang

Có Hà Nội có hồ Tây, hồ Kiếm.

Chợ Đồng Xuân bày đủ mặt hàng.

Quê hương tôi có sầu riêng, măng cụt

Lòng bưởi đào, lòng gấc đỏ như son.

Có gạo tám xoan thổi nồi đồng điếu,

Cam xã Đoài ai bóc cũng thơm ngon.

Cánh đồng nào cũng chôn vàng giấu bạc,

Bờ biển nào cũng chói ngọc ngời châu.

Có thanh quế ngửi qua là khỏi bệnh,

Có cây lim đóng cả một thân tầu.

Quê hương tôi có những người con gái

“Một ngày hai bữa cơm đèn...”

Cách sông cái cũng bắc cầu dải yếm,

Cho chàng sang đính ước chuyện nhân duyên.

Trong bụng mẹ đã từng mê tiếng hát;

Nên quê tôi ai cũng biết làm thơ.

Những trẻ nhỏ nằm nôi hay đặt võng,

Sớm hay chiều, đều mượn cánh cò đưa.

Khi có giặc những tre làng khắp nước,

Đều xả thân làm ngọn mác, mũi chông,

Những trai gái thôn Đông, xóm Bắc

Thoắt vươn vai thành những anh hùng...

Quê tôi đó - bạn ơi! - là thế đó.

Mà nghìn năm rặt những tiếng kêu thương

Sung sướng làm sao! Bỗng một ngày: có Đảng

Có Bác Hồ, làm sống lại quê hương.

Đánh Nhật, đuổi Tây cứu dân, dựng nước

Hai mươi năm kể biết mấy công trình!

Và từ đây, núi sông và cuộc sống

Và quê hương mới thực sự của minh.

Cuộc đời mới con người cũng mới,

Khắp bốn phương lộng lẫy ánh sao cờ,

“Đoàn quân Việt Nam đi... chung lòng cứu quốc...”

Đầu ngẩng cao từ cách mạng mùa thu.

Những xiềng xích nghìn năm đều bẻ gãy.

Những bài ca điệu múa lại vui tươi.

Những trận khóc đêm dài không có nữa.

Thành thị nông thôn rộn rã tiếng cười.

Trong lũy tre xanh vui mùa hợp tác,

Mái ngói nhô lên như những nụ hao hồng

Chung ruộng, chung trâu, chung lòng, chung sức

Chung con đường gặt lấy ấm no chung.

Trong xưởng máy tưng bừng như đám hội.

Những chủ nhân là chính những công nhân.

Tiếng máy reo chen tiếng cười tiếng hát,

Chẳng còn đâu tiếng chủ thét, cai gầm!

Những nhà thơ được tự do ca ngợi,

Quê hương. Tổ quốc, con người...

Và đời sống khỏi túng, nghèo, đói, khổ.

Khỏi bị ai khinh rẻ, dập vùi!

Đời trước thường mơ chuyện tiên, chuyện Phật,

Truyện thiên đường trong những cõi hư vô...

Đời nay dựng thiên đường trên mặt đất,

Dựng mùa xuân trong tất cả bốn mùa.

Khi con người được tự do giải phóng.

Đất rộng hơn mà trời cũng xanh hơn.

Quả trên cành cũng thêm ngon, thêm ngọt,

Hoa trong vườn cũng thêm sắc, thêm hương.

Và ý nghĩa những ca dao, tục ngữ

Ngày càng thêm thắm thiết, ngọt ngào.

Và “Truyện Kiều” mới có chân giá trị,

Và Nguyễn Du mới thành đại thi hào.

Thửa ruộng cũ cấy thêm mùa lúa mới,

Khung trời quê mọc những nóc lò cao.

Dây “cao thế” đã chăng dài khắp nẻo,

Những gỗ tốt đã dựng câu lạc bộ,

Gạo tám xoan thơm bếp lửa nhân dân.

Những cô Tấm tự tay xây hạnh phúc

Chẳng phải gian nan hoá kiếp mấy lần.

Và lớp lớp những anh hùng xuất hiện.

Sức thanh niên: sức Phù Đổng là đây!

Đẩy biển lùi ra, ngăn sông đứng lại,

Khẩu súng trường cũng hạ nổi máy bay.

Hội Diên Hồng thôn xã nào cũng mở,

Chuyện “kháng chiến trường kỳ” ai cũng nhớ nhập tâm.

“Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”

Câu ấy giờ đây đã đúng cả trăm phần.

Đảng cùng dân đã viết thêm lịch sử,

Lửa Điện Biên sáng dậy cả trăm năm.

Lửa Ấp Bắc, Chu Lai cũng bừng rực rỡ,

Lửa chiến công đang chói lọi miền Nam.

Khi có Đảng, có Bác Hồ lãnh đạo;

Có truyền thống cha ông để lại tự bao đời.

Thì đánh Mỹ nhất định là phải thắng

Chuyện ấy, quê tôi, thành chuyện dĩ nhiên rồi.

Câu chuyện quê tôi, sơ sài mấy nét.

Bạn trở về xin kể mọi người hay.

Riêng phần tôi có thơ này tặng bạn,

Tặng quê mình, nhân dịp tết năm nay.

Tình yêu đất mẹ trong bài thơ quê hương
Tình yêu đất mẹ trong bài thơ quê hương

>>> Khám phá thêm: Thơ về Cách mạng tháng Tám vang vọng khúc khải hoàn

Lịch sử nước Nam

Tác giả: Ngô Hoàng Hải

“Ngày xưa nối tiếp
Lịch sử nước nhà
Ngô, Lý, Trần, Lê…
Giữ lấy lòng chung.

Giang sơn xã tắc
Bái lễ ăn thề
Cùng nhau giữ nước
Chiến đấu đến cùng.

Tại bến Bình Than
Vua Trần Nhân Tông
Họp quan đại thần
Chủ hòa hay chiến?

Quốc Toản tướng trẻ
Bóp nát quả cam.
Cùng nhau chiến đấu
Xuất trận khởi binh.

Hội nghị Diên Hồng
Bô lão triệu về
Cùng nhau hô “Đánh”
Khí thế kiên cường.

Nhà Hồ bị cướp
Lê Lợi, Ức Trai
Chinh chiến mười năm
Lên vua Thái Tổ.

Truyền thuyết rùa vàng
Nổi lên đòi gươm
Trả Đức Long Quân
Nơi hồ Hoàn Kiếm.

Trịnh – Nguyễn phân tranh
Quân Thanh xâm lược
Quang Trung trổ tài
Lập triều Tây Sơn.

Lịch sử nước ta
Vẻ vang tươi đẹp
Hán, Tống, Nguyên, Minh…
Đánh tan tức khắc.”

Tổ Quốc! Bốn nghìn năm

Tác giả: Quốc Hòa

Tổ quốc tôi! Dằng dặc bốn nghìn năm
Nhiều thế hệ thay nhau cầm vũ khí
Chiến đấu hy sinh vì Tự do Độc lập
Để Việt Nam, ngời sáng rạng danh…

Đất nước tôi khi gặp họa chiến tranh
Có Ngô Quyền – Quang Trung – Nguyễn Trãi
Cùng dân tộc, đứng lên chiến đấu
Giữ hồn thiêng! Nước Việt Lạc Hồng.

Lũ giặc ngông cuồng, gây họa chiến chinh
Mộng bá quyền xâm lăng từ phương Bắc
Chúng đã gặp Bạch Đằng – Chương Dương – Hàm Tử
Là mồ chôn bao Đế Chế hung tàn.

Tổ quốc tôi! chưa được nghỉ ngơi
Bọn thực dân đua nhau xâm chiếm
Người dân phải lên nguồn xuống biển
Lầm than, cơ cực cả ngàn năm…

Bao nhiêu người, thây phơi đất mỏ
Hàng triệu người, chết đói bốn lăm
Cuộc đời tủi nhục hờn căm
Kiếp thân nô lệ, lầm than bần cùng…

Tổ quốc tôi! Từ khi có Đảng
Có Bác Hồ! Chỉ lối soi đường
Toàn dân theo Đảng lên đàng
Tự do – Độc lập quyết giành từ đây!

Điện Biên Phủ lẫy lừng sông núi
Gây âm vang chấn động địa cầu
Chín năm kháng chiến dài lâu
Thực dân xâm lược, phải mau đầu hàng…

Đế quốc Mỹ, đưa quân xâm chiếm
Lập lao tù, địa ngục trần gian
Ngày đêm, bom đạn rền vang
Gây bao máu đổ, xương tan khắp miền.

Quyết đập tan gông cùm, xiềng xích
Quyết hy sinh vì Độc lập – Tự do
Đứng lên, nào đứng lên thôi
Gái trai, già trẻ nơi nơi diệt thù.

Đây PLâyMe – Biên Hòa – Ấp Bắc
Kia Núi Thành – Bến Lức – Củ Chi
Quân dân rầm rập bước đi
Bến Tre quật khởi, diệt tan bốt đồn.

Kia Đà Nẵng – Khe Sanh – Đường chín
Đây Buôn Mê – Quảng Trị – Nam Lào
Ngày đêm chiến đấu, gian lao
Đánh quân Mỹ – Diệm, diệt loài xâm lăng.

Căm hờn, lại giục căm hờn
Đau thương còn đó, ta còn khắc ghi
Bắt chúng nó, phải quỳ đền tội
Đêm Điện Biên – Hà Nội – Tháng Mười Hai…

Bốn chiến lược, năm đời Tổng thống
Đã chôn vùi, cuồng vọng chiến tranh
Huy hoàng Tổ quốc Việt Nam
Giang sơn thống nhất, niềm vui dâng trào.

Ôi Việt Nam! Ôi Việt Nam!
Ôi! Thời đại Hồ Chí Minh!Quang vinh!
Độc lập – Tự do, Thống nhất – Hòa bình!
Tổ quốc! Bốn nghìn năm bất tử!

Nặng nghĩa thiêng liêng Tổ Quốc! Bốn nghìn năm
Nặng nghĩa thiêng liêng Tổ Quốc! Bốn nghìn năm

Thơ về lịch sử Việt Nam không chỉ gợi nhắc quá khứ vẻ vang mà còn nuôi dưỡng tinh thần dân tộc. Những vần thơ ấy là nhịp cầu kết nối tâm hồn người Việt với cội nguồn thiêng liêng của đất nước.

 

Bình Luận

Địa chỉ email của bạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu.