Bài thơ Núi Đôi (Vũ Cao) - Phân tích tác giả tác phẩm
Bài thơ “Núi Đôi” của Vũ Cao là bản tình ca bi tráng giữa chiến tranh và tình yêu. Không chỉ ca ngợi sự hy sinh cao cả, bài thơ còn vẽ nên một biểu tượng tình yêu đẹp đến nghẹn ngào giữa khói lửa chiến trường.
Nội dung bài thơ Núi Đôi
NÚI ĐÔI
Bảy năm về trước, em mười bảy
Anh mới đôi mươi, trẻ nhất làng
Xuân Dục, Đoài Đông hai cánh lúa
Bữa thì em tới, bữa anh sang
Lối ta đi giữa hai sườn núi
Đôi ngọn nên làng gọi núi Đôi
Em vẫn đùa anh: Sao khéo thế
Núi chồng núi vợ đứng song đôi!
Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau
Mới ngỏ lời thôi, đành lỗi hẹn
Đâu ngờ từ đó bặt tin nhau.
Anh vào bộ đội, lên Đông Bắc
Chiến đấu quên mình năm lại năm
Mấy bận dân công về lại hỏi
Ai người Xuân Dục, núi Đôi chăng?
Anh nghĩ, quê ta giặc chiếm rồi
Trăm nghìn căm uất bao giờ nguôi
Mỗi tin súng nổ vành đai địch
Sương trắng người đi lại nhớ người.
Đồng đội có nhau thường nhắc nhở
Trung du làng nước vẫn chờ trông
Núi Đôi bốt dựng kề ba xóm
Em vẫn đi về những bến sông?
Náo nức bao nhiêu ngày trở lại
Lệnh trên ngừng bắn. Anh về xuôi
Hành quân qua tắt đường sang huyện
Anh ghé thăm nhà, thăm núi Đôi.
Mới tới đầu ao, tin sét đánh
Giặc giết em rồi, dưới gốc thông
Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa
Em sống trung thành, chết thủy chung!
Anh ngước nhìn lên hai dốc núi
Hàng thông bờ cỏ con đường quen
Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói
Núi vẫn đôi mà anh mất em!
Dân chợ Phù Linh ai cũng bảo:
Em còn trẻ lắm, nhất làng trong
Mấy năm cô ấy làm du kích
Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng?
Từ núi qua thôn, đường nghẽn lối
Xuân Dục, Đoài Đông cỏ ngút đầy
Sân biến thành ao, nhà đổ chái
Ngổn ngang bờ bụi, cánh dơi bay.
Cha mẹ đưa nhau về nhận đất
Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau
Nứa gianh nửa mái lều che tạm
Sương nắng khuây dần chuyện xót đau.
Anh nghe có tiếng người qua chợ
Ta gắng: mùa sau lúa sẽ nhiều
Ruộng thấm mồ hôi từng nhát cuốc
Làng ta rồi đẹp biết bao nhiêu!
Nhưng núi còn kia, anh vẫn nhớ.
Oán thù còn đó, anh còn đây
Ở đâu cô gái làng Xuân Dục
Đã chết vì dân giữa đất này!
Ai viết tên em thành liệt sĩ
Bên những hàng bia trắng giữa đồng
Nhớ nhau anh gọi em: Đồng chí!
Một tấm lòng trong vạn tấm lòng.
Anh đi bộ đội sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm.
- 1956 -

Đôi nét về tác giả Vũ Cao
- Vũ Cao (1922 – 2007), tên thật Vũ Hữu Chỉnh, quê ở Nam Định, từng tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
- Gia đình: sinh ra trong một nho học và hoạt động văn học khá sớm
- Thơ ông thường viết về đề tài kháng chiến và những tình cảm cách mạng, ngôn ngữ và hình ảnh thơ trẻ trung, tươi mới và giàu cảm xúc.
- Tác phẩm tiêu biểu: Núi đôi (thơ, 1956), Đèo trúc (thơ, 1973), Từ một trận địa (truyện ngắn, 1973) …

>>> Tham khảo thêm: Bài thơ Bác ơi (Tố Hữu) - Phân tích tác giả tác phẩm
Đôi nét về bài thơ Núi Đôi
Hoàn cảnh ra đời
Bài thơ Núi Đôi được Vũ Cao sáng tác trong lần ông nằm điều trị tại Bệnh viện 74 ở Sóc Sơn (Hà Nội), được nghe câu chuyện từ đồng đội và dân làng Phù Linh về cô gái tuổi 20 đã hy sinh anh dũng ở Núi Đôi để bảo vệ đoàn cán bộ.
Giá trị nội dung
Bài thơ Núi Đôi thể hiện tình yêu sâu sắc, thủy chung giữa người chiến sĩ và cô gái thanh niên xung phong trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt. Tình yêu ấy vượt qua cả sự sống và cái chết, trở thành bất tử.
Tác phẩm còn khắc họa vẻ đẹp quê hương gắn liền với dấu tích chiến tranh, thể hiện tình cảm yêu nước và niềm tự hào dân tộc sâu đậm.
Giá trị nghệ thuật
Bài thơ Núi Đôi sử dụng ngôn ngữ giản dị, giàu cảm xúc, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trữ tình và hiện thực. Hình ảnh thơ gần gũi với đời sống, giàu biểu tượng, đặc biệt là hình tượng Núi Đôi mang ý nghĩa sâu sắc.
Nhịp điệu thơ mượt mà, giàu nhạc tính, gợi cảm xúc nhẹ nhàng mà sâu lắng. Giọng điệu trang trọng, thiết tha góp phần làm nổi bật vẻ đẹp của tình yêu và lý tưởng sống trong thời chiến.
>>> Tham khảo thêm: Bài thơ Đi học (Minh Chính) - Phân tích tác giả tác phẩm
Vượt qua khuôn khổ của một chuyện tình buồn, bài thơ “Núi Đôi” nâng tầm tình yêu lên thành lý tưởng sống. Đó là tình yêu hòa vào đất nước, thiên nhiên, và cả trong những khoảng lặng vĩnh hằng.