Ý nghĩa bài thơ Đói của Bàng Bá Lân trong văn học Việt Nam
Bài thơ Đói của Bàng Bá Lân là tác phẩm tiêu biểu phản ánh thực trạng đói nghèo cùng cực của người dân vùng quê trong bối cảnh xã hội đầy biến động. Qua những câu chữ mộc mạc, chân thật, bài thơ chạm đến trái tim người đọc.
Nội dung bài thơ Đói của Bàng Bá Lân
Vũ vũ thuỳ gia tử,
Y phá, lạp bất hoàn,
Thúc tòng nam phương lai
Hướng ngã tiền đầu than...
(Đạo phùng ngã phu - Cao Bá Quát)
Năm Ất Dậu, tháng ba, còn nhớ mãi
Giống Lạc Hồng cực trải lắm đau thương!
Những thây ma thất thểu đầy đường,
Rồi ngã gục không đứng lên vì... đói!
Đói từ Bắc Giang đói về Hà Nội,
Đói ở Thái Bình đói tới Gia Lâm.
Khắp đường xa những xác đói rên nằm
Trong nắng lửa, trong bụi lầm co quắp.
Giữa đống giẻ chỉ còn đôi hố mắt
Đọng chút hồn sắp tắt của thây ma;
Những cánh tay gầy quờ quạng khua khoa
Như muốn bắt những gì vô ảnh,
Dưới mớ tóc rối bù và kết bánh,
Một làn da đen sạm bọc xương đầu.
Răng nhe ra như những chiếc đầu lâu,
Má hóp lại, răng hằn sâu gớm ghiếc.
Già trẻ gái trai không còn phân biệt,
Họ giống nhau như là những thây ma,
Như những bộ xương còn dính chút da
Chưa chết đã bốc xa mùi tử khí!
Mùi nhạt nhẽo nặng nề kỳ dị,
Một mùi tanh lộn mửa thoảng mà kinh.
(Mùi tanh hôi ám ảnh mãi bên mình
Khiến cả tháng ăn không còn ngon bữa!)
Những thây đó cứ xỉu dần tắt thở,
Nằm cong queo mắt vẫn mở trừng trừng.
Trông con ngươi còn đọng lệ rưng rưng,
Miệng méo xệch như khóc còn dang dở.
Có thây chết ba hôm còn nằm đó,
Ruồi tám phương bâu lại khóc vo vo...
Rồi ven đường đôi nhát cuốc hững hờ
Đắp điếm vội những nấm mồ nông dối!
Đói từ Bắc Giang đói về Hà Nội,
Đói ở Thái Bình đói tới Gia Lâm.
Rải ven đường những nấm mộ âm thầm
Được đánh dấu bằng ruồi xanh cỏ tốt.
Có nấm mộ quá nông trơ hài cốt,
Mùi hôi tanh nồng nặc khắp không gian.
Sau vài trận mưa, nước xối chan chan,
Ôi, thịt rữa xương tàn phơi rải rác!
Tại Hà Nội cũng như bao tỉnh khác,
Những thây ma ngày lết đến càng đông;
Đem ruồi theo cùng hơi hớm tanh nồng,
Rồi ngã gục khắp đầu đường cuối ngõ.
Thường sớm sớm cửa mỗi nhà hé ngỏ,
Rụt rè xem có xác chết nào chăng!
Từng chiếc xe bò bánh rít khô khan
Mỗi sáng dạo khắp nẻo đường nhặt xác.
Xác chồng chất lù lù như đống rác,
Đó đây thò khô đét một bàn chân
Hay cánh tay gầy khô đét teo răn
Giơ chới với như níu làn không khí,
Như cầu cứu, như vẫy người chú ý...
Có hơi thở tàn thoi thóp chưa thôi,
Có tiếng của mình, tiếng nấc... Những tròng ngươi
Nhìn đẫm lệ người chôn người chửa chết!
Bốn ngoại ô mở ra từng dẫy huyệt
Được lắp đầy bằng xác chết... thường xuyên.
Ruồi như mây bay rợp cả một miền...
Chết! Chết! Chết! Hai triệu người đã chết!
Họ là những người quê non nước Việt,
Sống cần lao bên ruộng lúc đồng khoai.
Lúa xanh rờn nhờ họ đổ mồ hôi,
Nước Việt sống nhờ mồ hôi họ đổ.
Năm ấy, thuở Nhật, Tây cùng đô hộ,
Chúng thi nhau cướp lúa của dân ta.
Hết lúa rồi, hết sạch cả khoai ngô;
Hết củ chuối, hết nhẵn khô cả sắn!
Ngày giáp hạt không còn chi để nhấm,
Đói cháy lòng, đành nhá cả mo cau;
Nhá cả bèo và nuốt cả khô dầu!
Đói! Đói! Đói! Người nhao lên vì đói!
Đói từ Bắc Giang đói về Hà Nội,
Đói ở Thái Bình đói tới Gia Lâm.
Tạm biệt quê hương, lê gót âm thầm
Trên rải rác mọi nẻo đường đất nước.
Từng gia đình dắt díu nhau lê bước
Đi lang thang mong sống tạm qua ngày.
Đợi lúa lên hương, bông trĩu đầu cây.
Hơn tháng nữa sẽ hồi cư sẽ sống!
Nhưng đau đớn hỡi ơi là ảo mộng!
Họ ra đi hy vọng có ngày về!
Nhưng chẳng bao giờ về nữa, hỡi người quê!
Dần lả gục khắp đầu đường xó chợ!
Cùng lúc ấy cũng trên đường rộn rã,
Từng đoàn xe chuyên chở thóc vàng tươi.
Thóc của dân đen, thóc của những người
Đang chết đói vì thực dân cướp thóc.
Thóc chúng cướp phần vung xài huy hoắc,
Phần chúng đem để mục nát trong kho!
Ôi, đau thương, chưa từng thấy bao giờ...
Trong lịch sử chưa bao giờ từng có!
Hai triệu người, vì thực dân, lìa bỏ
Nước thân yêu, oan uổng chết đau thương,
Trong lúc đầy đồng bát ngát, ở quê hương,
Lúa mơn mởn đang ra đòng trổ trái,
Lúa trĩu hạt vàng tươi sai gấp bội,
Ngạt ngào thơm báo hiệu ấm no vui.
Nhưng người đi không về nữa, than ôi!
Lúa chín gục, chẳng còn ai gặt hái!...
Ta nhớ mãi cái thời kỳ đen tối!
Quên làm sao tội lỗi kẻ xâm lăng!
Quên làm sao mối thù hận khôn cùng!
Quên sao được hai triệu người chết đói!
Năm Ất Dậu tháng ba, còn nhớ mãi,
Giống Lạc Hồng cực trải lắm đau thương!
Những thây ma thất thểu đầy đường.
Rồi ngã gục không đứng lên vì... đói!
Đói từ Bắc Giang đói về Hà Nội,
Đói ở Thái Bình đói tới Gia Lâm!...
Tháng năm 1957
>>> Tham khảo thêm: Bài thơ Chạy giặc (Nguyễn Đình Chiểu) - Phân tích tác giả tác phẩm
Ý nghĩa bài thơ Đói của Bàng Bá Lân
Bài thơ trên là một tác phẩm đầy bi thương, phản ánh một thời kỳ khủng khiếp trong lịch sử Việt Nam – nạn đói năm 1945 (năm Ất Dậu). Ý nghĩa của bài thơ có thể tóm tắt như sau:
Tái hiện sự đau thương, tàn khốc của nạn đói: Bài thơ mô tả chi tiết cảnh tượng đau lòng của người dân bị đói khát đến mức kiệt quệ sức lực, thậm chí chết trên đường phố, xác người chất thành đống, đầy rẫy sự thảm thương và mất mát. Hình ảnh thây ma, xác chết, ruồi bu khắp nơi gợi lên sự tang thương khôn cùng, khiến người đọc cảm nhận được nỗi đau, sự mất mát của dân tộc.
Lên án sự áp bức, bóc lột của thực dân, phát xít Nhật: Bài thơ chỉ rõ nguyên nhân sâu xa dẫn đến nạn đói là do sự chiếm đóng, cướp bóc lúa gạo của dân đen, khiến người dân nghèo kiệt quệ, không còn gì để ăn. Thóc lúa của dân bị cướp đem đi hoang phí hoặc tích trữ để mục nát, trong khi người dân thì chết đói.
Biểu tượng của nỗi đau dân tộc và sự bất công lịch sử: Bài thơ như một lời tố cáo công khai tội ác của kẻ thù và đồng thời là lời nhắc nhở về những trang sử đen tối mà dân tộc không được phép quên. Đó cũng là lời cảnh tỉnh về sự cần thiết của tự do, độc lập, và sự trân trọng cuộc sống.
Tôn vinh tinh thần và số phận người nông dân Việt Nam: Người nông dân, những người lao động chân chất, chịu đựng cực khổ nhất nhưng lại là nền tảng của đất nước, là những người gánh chịu nỗi đau lớn nhất khi bị cướp bóc, đói khát.
>>> Tham khảo thêm: Bài thơ "Đêm Trường Sơn nhớ Bác" và cảm xúc sâu sắc nhất
Qua bài thơ Đói, Bàng Bá Lân đã ghi lại một phần lịch sử đen tối của xã hội cũ và gửi gắm thông điệp về sự đồng cảm, sẻ chia trong cuộc sống, khơi dậy ý thức trách nhiệm của con người với cộng đồng.